Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81). Đối với biện pháp này, để bảo đảm tính khẩn cấp, những người có thẩm quyền được áp dụng trước, Viện kiểm sát phê chuẩn sau khi đã bắt người. Tuy nhiên, quy định này không phù hợp với quy định của khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang”. Vì vậy, để phù hợp với quy định của Hiến pháp, đồng thời vẫn bảo đảm đáp ứng được thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được sửa đổi biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp thành biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Văn phòng luật sư số 5 Hà Nội

Khác với việc bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, trước khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp còn phải qua kiểm tra, xác minh để xác định căn cứ của việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và việc xác minh đó trong nhiều trường hợp rất phức tạp. Do đó, để bảo đảm ngăn ngừa kịp thời việc phạm tội và người phạm tội bỏ trốn, đồng thời khắc phục kịp thời trường hợp oan sai, Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục quy định các trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và việc bắt người bị giữ trong mọi trường hợp đều phải được Viện kiểm sát xét phê chuẩn như quy định tại Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn mang tính cấp bách nhằm ngăn chặn tội phạm, người phạm tội bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Khi có một trong những căn cứ sau đây thì cơ quan, người có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp giữ người:

Trường hợp thứ nhất: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Đây là trường hợp người có thẩm quyền bằng các biện pháp nghiệp vụ của mình hoặc do người dân tố giác tội phạm, sau khi tiến hành xác minh biết được đối tượng đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nên cần phải giữ ngay, không để đối tượng kịp thực hiện hành vi phạm tội của mình. Trong trường hợp này, tội phạm đang ở trong giai đoạn chuẩn bị, hành vi phạm tội chưa được thực hiện nên việc xác định căn cứ để xác định rất khó khăn, vừa đòi hỏi tính kịp thời nhưng lại phải có căn cứ, thông tin phải xác thực và được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng.

Trường hợp thứ hai: Người cùng thực hiện hành vi tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.

Việc giữ người trong trường hợp này khác với trường hợp giữ người trong trường hợp thứ nhất. Nếu như ở trường hợp thứ nhất người bị giữ đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, tức là tội phạm chưa được thực hiện, thì ở trường hợp thứ hai, tội phạ đã được thực hiện. Người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội của mình nhưng chưa bị bắt ngay khi đang thực hiện tội phạm. Sau khi người phạm tội đã thực hiện tội phạm thì người có mặt ở nơi xảy ra tội phạm (có thể là người bị hại, người làm chứng hoặc người cùng thực hiện tội phạm) chính mắt nhìn thấy, xác nhận đúng là người đó đã thực hiện tội phạm và báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền. Sau khi xác minh những tài liệu do những người này cung cấp là chính xác, thấy rằng nếu không tiến hành giữ ngay đối tượng sẽ bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho việc điều tra thì người có thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Thực tế cho thấy, trong một số vụ án, người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì bỏ trốn. Trong quá trình Cơ quan điều tra đang tiến hành kiểm tra, xác minh để làm rõ hành vi phạm tội thì người bị hại gặp người đã thực hiện hành vi phạm tội nên giữ lại đưa đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong trường hợp này, người có thẩm quyền có thể ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp hay không, là câu hỏi mà không ít nhà thực tiễn đặt ra. Theo tác giả, trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và tiến hành thủ tục thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp áp dụng theo quy định: “Khi tiến hành giữ người tại nơi khác…” tại khoản 2 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trường hợp thứ ba: Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Bằng các hoạt động khám xét, khám người, kiểm tra hành chính… mà phát hiện có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và có căn cứ cho rằng, nếu không kịp thời giữ thì người đó bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ thì người có thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Về thẩm quyền, những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

  • Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
  • Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội Biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội Biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
  • Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

Về lệnh và việc thi hành: Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ; lý do, căn cứ giữ người; số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành; căn cứ ban hành; nội dung; họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và đóng dấu. Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Những việc phải tiến hành sau khi giữ hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp:

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người có thẩm quyền giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp gồm:

  • Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
  • Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ;
  • Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp;
  • Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
  • Chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Trách nhiệm của Viện kiểm sát:

Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên lập phải đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.

Như vậy, trong trường hợp có nghi ngờ về tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ của việc giữ khẩn cấp thì Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ để quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp này phải được đưa vào hồ sơ vụ án và đó cũng là tài liệu phục vụ cho việc xem xét phê chuẩn. Toàn bộ thời gian xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Viện kiểm sát là rất ngắn, chỉ trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn kèm theo các tài liệu có liên quan đến việc giữ khẩn cấp. Trong thời hạn đó, Viện kiểm sát hoàn tất các công việc như nghiên cứu hồ sơ (kể cả việc gặp, hỏi người bị bắt, nếu có), ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn và phải gửi các quyết định đó cho người đã ra lệnh bắt. Trong trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh bắt có trách nhiệm phải trả tự do ngay cho người bị giữ.

Quy định trên đã làm rõ phạm vi những người có thẩm quyền giữ khẩn cấp và nêu cao tinh thần trách nhiệm của người ra lệnh giữ khẩn cấp, của Viện kiểm sát khi xét phê chuẩn biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bảo đảm khắc phục oan, sai ngay từ đầu.

XEM THÊM