Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác là một nguồn chứng cứ. Đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài như hành vi phạm tội được thực hiện kéo dài ở cả trong nước và nước ngoài, người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam, người phạm tội đã có tiền án ở nước ngoài… thì việc ủy thác tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng, trong nhiều trường hợp quyết định đến hiệu quả giải quyết vụ án.
Theo quy định về hiệu lực thì Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015), theo đó, việc thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự ngoài lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện thông qua con đường ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác.
Quá trình thực hiện ủy thác tư pháp thời gian qua đã đạt được một số kết quả quan trọng, nhưng trong một số vụ án, việc ủy thác tư pháp thường gặp khó khăn do thông tin cung cấp từ phía cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa đầy đủ, quốc gia được yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp chưa ký kết các Hiệp định đa phương hoặc song phương về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự đối với Việt Nam. Xuất phát từ tình hình thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm có yếu tố nước ngoài, trên cơ sở bảo đảm hiệu quả của việc thực hiện ủy thác tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự quy định một trong những nguồn chứng cứ quan trọng là kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế
Kết quả ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ là tính xác thực, tính liên quan và tính hợp pháp, đồng thời nó phải phù hợp với chứng cứ khác của vụ án.