Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự

Kế thừa quy định về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự đã được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định tại Điều 63, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án” thành: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng” là chủ thể có trách nhiệm thực hiện việc chứng minh trong vụ án hình sự, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Trong giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án và các vấn đề có liên quan; đó là các vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, được xác định bởi cấu thành tội phạm theo bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và những vấn đề có liên quan cần làm rõ để xác định trách nhiệm hình sự của người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm:

  • Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là những yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm, làm rõ những vấn đề này sẽ xác định được hành vi phạm tội có xảy ra trên thực tế hay không, làm rõ về thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội…
  • Sau khi chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải trả lời các câu hỏi tiếp theo: Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý (trực tiếp hay gián tiếp) hay vô ý (do quá tự tin hay do cẩu thả); có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội. Đây là những yếu tố về chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm, có ý nghĩa xác định người thực hiện hành vi có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.
  • Sau khi xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội và họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của họ gây ra thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành khởi tố và phải xác định những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Đây là những vấn đề cần chứng minh có ý nghĩa đánh giá sâu về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, quyết định khung hình phạt, mức hình phạt và giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (nếu có). Việc làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội là một nội dung mới thuộc các vấn đề phải chứng minh, là yêu cầu bắt buộc trong giải quyết vụ án hình sự, một nội dung cần được đánh giá trong bản kết luận điều tra, bản cáo trạng. Việc xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, nó cũng đặt ra yêu cầu cho Hội đồng xét xử khi tiến hành thẩm vấn và điều hành việc tranh tụng tại phiên tòa cần tạo điều kiện cho bên buộc tội và bên gỡ tội làm rõ vấn đề này, chứ không chỉ hạn chế trong việc thẩm tra, đánh giá chứng cứ hay viện dẫn “giới hạn của việc xét xử” để hạn chế quyền của các bên khi tham gia tố tụng.
  • Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Đây là nội dung mới được bổ sung so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm bảo đảm khách quan, chống oan, sai. Những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự có thể là phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ, tình thế cấp thiết, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội, rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ, thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên. Các tình tiết liên quan đến miễn trách nhiệm hình sự như người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội; người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận; người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự. Các tình tiết liên quan đến miễn hình phạt như ngwofi phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; người phạm tội phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể mà đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.

XEM THÊM