Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, gây cản trở hoạt động điều tra hoặc bỏ trốn; đồng thời, bảo đảm cho cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, trên cơ sở đó ra các quyết định tố tụng như khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho họ.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ gồm những người bị giữ gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Tuy nhiên, không phải trong tất cả các trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền đều áp dụng biện pháp tạm giữ đối với họ. Do điều luật không quy định cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ nên thông thường, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thường bị áp dụng biện pháp tạm giữ. Mục đích của việc áp dụng biện pháp tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp nhằm ngăn chặn việc người đó trốn thoát hoặc cản trở việc điều tra; tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt. Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội đầu thú, tự thú thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng nhưng có nơi cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ hoặc các hoạt động gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng khác thì không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giữ. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhanh chóng lấy lời khai, xác minh nhân thân, các tình tiết cso liên quan đến người phạm tội để làm căn cứ xử lý tiếp theo.
Khoản 3 Điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: :Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”. Nội dung điều luật này cho thấy việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ nhằm bảo đảm cho cơ quan có thẩm quyền có điều kiện lấy lời khai, xác minh nhân thân và những tình tiết khác có liên quan đến người bị tạm giữ để có căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm giam hoặc trả tự do cho người bị tạm giữ. Như vậy, có thể khẳng định người có thẩm quyền không được áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú trong các trường hợp sau:
- Cơ quan có thẩm quyền xác định việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang là không có căn cứ;
- Ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, cơ quan có thẩm quyền xác định ngay được căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can và xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam.
- Ngoài các trường hợp trên, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ phụ thuộc rất nhiều vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi áp dụng biện pháp này cần quán triệt mục đích của việc áp dụng, nếu xét thấy mục đích của việc áp dụng không còn cần thiết thì không nên áp dụng biện pháp này, mà thay vào đó là áp dụng biện pháp ngăn chặn như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm.
Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ:
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
- Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng.
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng không có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, mà sau khi tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp, họ phải giải ngay người bị giữ đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay, bến cảng đầu tiên tàu trở về.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm giữ, giờ, ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ cùng các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quyết định tạm giữ phải giao cho người bị tạm giữ 01 bản. Khi thi hành quyết định tạm giữ, người thi hành phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc giao quyết định tạm giữ phải được lập biên bản giao nhận quyết định tạm giữ, trong đó có thể ghi rõ việc đã giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị tạm giữ.
Những việc phải làm sau khi ra quyết định tạm giữ: quyết định tạm giữ không cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát trước khi thi hành, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.