Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS) có nhiều quy định mới, trong đó có quy định liên quan đến việc Tòa án xem xét, xử lý đơn khởi kiện, giải quyết vụ án dân sự mà người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có mặt tại nơi cư trú. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này và các quy định pháp luật về cư trú tại các Tòa án trong thời gian qua còn chưa có sự thống nhất. Trong phạm vi bài viết, tác giả xin nêu lên một số vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến việc áp dụng quy định pháp luật giải quyết vụ án dân sự khi người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại nơi cư trú trong thời gian qua.
Việc xác định nơi cư trú của cá nhân trong trường hợp họ đăng ký thường trú hoặc tạm trú ở địa phương này nhưng lại đang sinh sống ở địa phương khác
Theo điểm e khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, Tòa án trả lại đơn khởi kiện (trong giai đoạn xử lý đơn khởi kiện) hoặc đình chỉ giải quyết vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) trong trường hợp người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán, trong đó, có yêu cầu về việc sửa đổi, bổ sung nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, để xác định nơi cư trú của cá nhân phải dựa vào pháp luật cư trú. Tuy nhiên, hiện nay việc quy định về nơi cư trú của công dân tại các văn bản có sự khác nhau. Theo Điều 12 Luật cư trú năm 2006, được sửa đổi, bổ sung năm 2013 (Luật Cư trú), nơi cư trú của công dân được quy định như sau:
1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.
Trong khi đó, Điều 40 BLDS năm 2015 lại quy định:
1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.
Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó đang sinh sống.
Trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới.
Với các quy định trên, trong trường hợp một cá nhân đăng ký thường trú hoặc tạm trú ở địa phương này nhưng lại đang sinh sống ở địa phương khác thì nơi nào là nơi cư trú của cá nhân đó chưa có sự thống nhất trên thực tiễn.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo Luật Cư trú, nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú này được xác định là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Trường hợp không xác định được nơi thường xuyên sinh sống, nơi thường trú hoặc nơi tạm trú thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống. Do đó, trong trường hợp này, nơi cư trú của cá nhân là nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú của cá nhân đó.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quy định về nơi cư trú của cá nhân theo BLDS năm 2015 đã có sự thay đổi cơ bản so với Luật cư trú. Theo đó, nơi cư trú không còn dựa vào chỗ ở hợp pháp mà cá nhân thường xuyên sinh sống với 2 biểu hiện là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú, mà chỉ dựa vào nơi người đó thường xuyên sinh sống. Vì vậy, nơi nào mà cá nhân thường xuyên sinh sống là nơi cư trú của họ, bất kể họ có đăng ký thường trú hay đăng ký tạm trú hay không.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai.
Điều kiện để Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong trường hợp họ vắng mặt tại nơi cư trú trước thời điểm người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đến Tòa án, nhưng người khởi kiện không biết địa chỉ mới của họ
Điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định:
Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện.
Đồng thời, điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 quy định, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS mà Tòa án đã thụ lý, trong đó có trường hợp được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.
Với các quy định trên để thụ lý, giải quyết vụ án vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong trường hợp họ vắng mặt tại nơi cư trú trước thời điểm người khởi kiện nộp đơn khởi kiện, Tòa án phải làm rõ 2 điều kiện:
Một là, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan “không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được”.
Hai là, mục đích thay đổi nơi cư trú, trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là “che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện”.
Việc hiểu, áp dụng điều kiện thứ nhất không gặp khó khăn nhưng việc hiểu và thực hiện điều kiện thứ hai vẫn chưa có sự thống nhất trong thực tiễn.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo khoản 3 Điều 40 BLDS năm 2015, “một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới”. Cho nên, trong trường hợp một người có nghĩa vụ với người khác (thông qua hành vi pháp lý đơn phương hoặc giao dịch dân sự) mà bỏ đi nơi khác thì họ có nghĩa vụ thông báo nơi cư trú mới cho người có quyền. Chủ thể nào có nghĩa vụ với người khác mà bỏ địa phương, không thông báo địa chỉ mới thì xem như họ cố tình “che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện”. Trong trường hợp này, người khởi kiện có quyền lựa chọn nơi cư trú cuối cùng của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo điểm a khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015 để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Quan điểm thứ hai cho rằng, khoản 3 Điều 40 BLDS năm 2015 không quy định trong mọi trường hợp một cá nhân bỏ địa phương đi phải báo cho người khác biết nơi cư trú mới mà chỉ ràng buộc trong trường hợp “gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ”. Trong khi đó, mỗi cá nhân tham gia rất nhiều quan hệ xã hội. Bản thân họ rất khó biết là trong quan hệ nào họ có nghĩa vụ với chủ thể khác.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 40 BLDS năm 2015 quy định, khi thay đổi nơi cư trú, bên có nghĩa vụ phải thông báo cho bên có quyền biết nơi cư trú mới; còn điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 lại quy định bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú phải thông báo cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú. Cho nên, rất khó ràng buộc cá nhân khi thay đổi nơi cư trú phải thông báo theo các quy định này.
Với các phân tích trên đây, việc áp dụng quy định về nơi cư trú của cá nhân trong BLDS năm 2015 để giải quyết vụ án vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khi họ thay đổi nơi cư trú là chưa phù hợp.
Trong trường hợp này, Tòa án phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp và Tòa án thu thập được để đánh giá mục đích của việc thay đổi nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Khi chứng minh được việc người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú nhằm “trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện” thì Tòa án mới được được giải quyết vắng mặt họ.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai.
Việc áp dụng thủ tục tống đạt văn bản tố tụng khi giải quyết vụ án dân sự vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Việc áp dụng các quy định về tống đạt văn bản tố tụng để giải quyết vụ án vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trên thực tiễn.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo quy định về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng (sau đây được gọi chung là tống đạt văn bản tố tụng) tại Chương X BLTTDS năm 2015, việc tống đạt văn bản tố tụng thông thường được tiến hành lần lượt thông qua các bước tống đạt trực tiếp, tống đạt qua trung gian, niêm yết công khai và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thủ tục tống đạt trước đó mà không đạt kết quả sẽ tiến hành thủ tục tiếp theo. Đồng thời, các văn bản tố tụng cần được tống đạt cho đương sự đều phải tiến hành qua thủ tục này, không có sự loại trừ. Vì vậy, khi ban hành văn bản tố tụng mà pháp luật quy định phải tống đạt cho người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải tiến hành theo đúng trình tự tống đạt do BLTTDS năm 2015 quy định.
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả, cho rằng, mặc dù BLTTDS năm 2015 quy định việc tống đạt văn bản tố tụng phải được tiến hành lần lượt thông qua các bước tống đạt trực tiếp, tống đạt qua trung gian, niêm yết công khai và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; thủ tục tống đạt trước đó mà không đạt kết quả sẽ tiến hành thủ tục tiếp theo. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này không nên cứng nhắc mà phải linh hoạt cho phù hợp với các quy định khác của BLTTDS năm 2015, trong đó có thời hạn chuẩn bị xét xử và tính chất của vụ án.
Theo đó, đối với các vụ án hôn nhân và gia đình mà chỉ có yêu cầu ly hôn, không có tranh chấp về tài sản hoặc các vụ án dân sự khác mà người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi phán quyết của Tòa án thì chỉ nên thực hiện thủ tục tống đạt đến bước niêm yết công khai mà không cần phải tiến hành thủ tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Đối với các trường hợp khác, Tòa án cần tiến hành thủ tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, việc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng chỉ cần thực hiện đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa để xét xử vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mà không thực hiện đối với các văn bản tố tụng khác.
Về chi phí thực hiện thủ tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng
Theo khoản 3 Điều 180 BLTTDS năm 2015, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, trên một trong các báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Với việc thực hiện thủ tục này sẽ phải tốn nhiều chi phí cho 01 lần thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đối với văn bản tố tụng. Tuy nhiên, do BLTTDS năm 2015 chưa quy định rõ nghĩa vụ chịu chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nên còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau đối với chủ thể chịu nghĩa vụ này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, người khởi kiện phải chịu chi phí này. Bởi vì, việc thực hiện thủ tục này phục vụ cho việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quy định về các chi phí tố tụng khác tại mục 2 Chương IX BLTTDS năm 2015 không quy định về loại chi phí này. Trong khi đó, theo các khoản 1, 2 Điều 180 BLTTDS năm 2015, việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng được thực hiện trong 03 trường hợp. Một là, khi pháp luật có quy định. Hai là, có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai không bảo đảm cho người được tống đạt nhận được thông tin về văn bản cần được tống đạt. Ba là, có yêu cầu của các đương sự khác. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 180 BLTTDS năm 2015 còn quy định, đương sự chỉ phải chịu chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng này khi họ có yêu cầu. Như vậy, khi Tòa án tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng thuộc trường hợp 1 và trường hợp 2 thì Tòa án phải bỏ ra chi phí thực hiện.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai.
Nghĩa vụ cung cấp nơi cư trú của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong trường hợp Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng
Theo khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có thể tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được đương sự khác đưa vào tham gia tố tụng thì đương sự có yêu cầu phải cung cấp nơi cư trú của chủ thể này theo quy định chung. Tuy nhiên, trong trường hợp không có đương sự nào yêu cầu đưa một người nào đó vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng Tòa án thấy cần thiết phải đưa họ vào tham gia tố tụng thì nghĩa vụ cung cấp nơi cư trú của chủ thể này còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, người có yêu cầu liên quan đến chủ thể này phải thực hiện cung cấp nơi cư trú. Đó có thể là nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Bởi vì, việc đưa một chủ thể nào đó vào tham gia tố tụng cũng nhằm mục đích giải quyết triệt để vụ án, đảm bảo quyền lợi của những chủ thể có liên quan đến yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập.
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả, cho rằng, Tòa án phải có trách nhiệm xác định nơi cư trú của chủ thể này. Bởi vì, Tòa án là cơ quan chủ động đưa chủ thể nào đó vào tham gia tố tụng nên không thể chuyển nghĩa vụ xác định nơi cư trú của chủ thể đó cho người có yêu cầu có liên quan đến chủ thể này. Hơn nữa, nếu buộc nghĩa vụ xác định nơi cư trú cho người có yêu cầu thì dễ dẫn đến trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự khi người có yêu cầu không cung cấp được nơi cư trú của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được đưa vào tham gia tố tụng.
Trên đây là những vướng mắc gặp phải khi áp dụng các quy định pháp luật giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại nơi cư trú trên thực tiễn. Mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi của quý độc giả.
Nguồn: Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử