Chứng cứ là phương tiện duy nhất để chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự. Do vậy, để việc sử dụng chứng cứ đạt được mục đích, dựa trên cơ sở, yêu cầu của pháp luật và thực tiễn tiến hành hoạt động chứng minh, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải quán triệt và thực hiện đầy đủ một số vấn đề mang tính nguyên tắc trong sử dụng chứng cứ đó là:
Chấp hành nguyên tắc khách quan toàn diện và đầy đủ trong tố tụng hình sự.
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được sử dụng những chứng cứ đã được phát hiện, thu thập theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra, trinh sát, phải được chuyển hóa thành chứng cứ hợp pháp mới được sử dụng. Những tài liệu, chứng cứ phải được kiểm tra, xác minh đầy đủ, phải đảm bảo đầy đủ ba thuộc tính của chứng cứ, phải phù hợp với thực tế khách quan, đảm bảo sự tin cậy và có đủ căn cứ mới sử dụng được. Tuyệt đối không sử dụng chứng cứ chưa được kiểm tra, xác minh làm căn cứ, cơ sở để đưa ra những quyết định pháp lý, hoặc sử dụng vào việc kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác. Khi sử dụng chứng cứ không được định kiến, chủ quan, thiên lệch, coi trọng chứng cứ này mà bỏ qua chứng cứ kia, chỉ coi trọng sử dụng chứng cứ gốc, chứng cứ trực tiếp mà bỏ qua, coi nhẹ chứng cứ sao chép, chứng cứ thuật lại, chứng cứ gián tiếp, không chỉ sử dụng chứng cứ buộc tội mà sử dụng cả chứng cứ gỡ tội và ngược lại. Khi ra một quyết định tố tụng kết luận về bất cứ vấn đề nào đó hay toàn bộ mọi vấn đề trong vụ án, người tiến hành tố tụng phải sử dụng tổng hợp mọi chứng cứ trong vụ án.
Khi sử dụng chứng cứ phải tuân theo đúng những quy định của pháp luật.
Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định thế nào là chứng cứ, chứng cứ được xác định ở những nguồn cụ thể. Việc sử dụng những chứng cứ ở nguồn luật định phải chấp hành nghiêm chỉnh theo những quy định của pháp luật tố tụng. Đặc biệt với những chứng cứ là lời khai của những người tham gia tố tụng, do đặc điểm của những chứng cứ này thường bị xen lẫn yếu tố chủ quan, dễ bị sai lệch, vì vậy khi sử dụng các lời khai của người tham gia tố tụng ở các tư cách khác nhau phải tuân theo đúng những quy phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chẳng hạn, khi sử dụng lời khai của bị can, bị cáo làm chứng cứ thì phải hết sức thận trọng vì “ …Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội” (khoản 2 Điều 72 BLTTHS). Đối với bị can, bị cáo là vị thành niên, hoặc người làm chứng dưới 16 tuổi thì chỉ được sử dụng lời cung của bị can, bị cáo, lời khai của người làm chứng ( là vị thành niên) để làm chứng cứ của vụ án khi việc hỏi cung được tiến hành theo đúng qui định của pháp luật; “…Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng……..Tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức….” (khoản 2,3 Điều 306 BLTTHS); “…Khi lấy lời khai của người làm chứng dưới 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của người đó tham dự…” (khoản 5 Điều 135 BLTTHS). Đối với lời khai của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, thì không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do những người trên trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó (các Điều 68, 69,70 BLTTHS). Khi sử dụng lời khai của người làm chứng cần lưu ý “1.Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra. 2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.” (Điều 67 BLTTHS).
Sử dụng chứng cứ phải đảm bảo tính kịp thời
Sau khi phát hiện, thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng cần tiến hành nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá ngay để sử dụng nhằm đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời của các hoạt động tiếp theo, vừa đảm bảo thời gian đã được quy định đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vừa đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, hạn chế những thiệt hại cho xã hội, bắt giữ ngay kẻ phạm tội không để chúng có thời gian lẩn trốn, tiêu hủy tài sản, chứng cứ tang vật, xóa hết dấu vết hoặc tiếp tục gây án. Mặt khác, các chứng cứ sau khi kiểm tra đánh giá, đã xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ thì chỉ được sử dụng đúng với giá trị của nó, giá trị chứng minh của từng chứng cứ đều có những giới hạn, phạm vi nhất định, việc sử dụng cần căn cứ vào giới hạn, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, không được phép phán đoán chủ quan, sử dụng gượng ép, ngoài khả năng chứng minh của từng chứng cứ. Sử dụng đúng giá trị chứng minh của chứng cứ cho phép người tiến hành tố tụng xác định đúng sự thật khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Ví dụ: Tại nhà riêng của Trần Văn T, cơ quan tiến hành tố tụng xác định phát hiện thấy có 1 chiếc xe máy, là tài sản đã bị chiếm đoạt trong một vụ trộm cắp xảy ra trước đó. Cơ quan tiến hành tố tụng không thể chỉ căn cứ vào chiếc xe máy có tại nhà riêng của Trần Văn T để ra quyết định khởi tố T hoặc quyết định bắt giữ T, bởi vì chưa có chứng cứ xác định mối quan hệ nhân quả giữa những hành vi mà T thực hiện để có chiếc xe máy đó, chưa có chứng cứ xác định mối quan hệ sở hữu giữa T và chiếc xe máy là hợp pháp hay bất hợp pháp….Chiếc xe máy có tại nhà riêng của T có thể do kẻ phạm tội có mối quan hệ thân quen với T sau khi trộm cắp được xe máy đã gửi ở đó, T không biết là tài sản trộm cắp nên đã cho gửi, hoặc cũng có thể do T không biết đó là tài sản phạm pháp nên đã mua nhầm…Trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng phải đặt các giả thiết khác nhau, tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh làm rõ mối quan hệ của T với chiếc xe máy, vì sao chiếc xe đó lại có ở tại nhà riêng của T? có đúng đó là chiếc xe bị trộm cắp không? Quan hệ của T với chủ xe như thế nào?…Chỉ khi nào có đủ chứng cứ chứng minh T đã phạm tội trộm cắp tài sản là chiếc xe máy thì mới quyết định bắt giữ T.
Một ví dụ nữa: Nguyễn Tuấn N là cán bộ hải quan đang làm nhiệm vụ ở cửa khẩu, N phát hiện Hoàng Văn H chở thuốc lá lậu qua biên giới, H đã đưa một khoản tiền cho N để N bỏ qua và cho H chuyển thuốc lá lậu qua biên giới. Sự việc bị phát giác, cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào chứng cứ đã có để khởi tố vụ án, khởi tố Nguyễn Tuấn N hai tội: Tội nhận hối lộ và tội buôn lậu qua biên giới với vai trò là đồng phạm. Nếu không khởi tố N về tội buôn lậu qua biên giới, chỉ căn cứ vào hành vi nhận tiền của N và khởi tố một tội nhận hối lộ là bỏ lọt tội phạm, là không sử dụng hết giá trị chứng minh của chứng cứ.
Vật chứng là chứng cứ phải đảm bảo sử dụng nhiều lần.
Không được xử lý vật chứng trước khi có quyết định của người có thẩm quyền, xử lý vật phải theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự, không được làm mất mát, hư hỏng, thất lạc chứng cứ vì trong một vụ án, vật chứng là chứng cứ không thể thay thế được, vật chứng được phát hiện, thu thập ngay từ giai đoạn điều tra, có nhiều vật chứng việc bảo quản rất phức tạp, khó khăn, tuy nhiên để đảm bảo sử dụng chứng cứ bằng vật chứng vào việc chứng minh vụ án đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định của Bộ luật TTHS. Trong mọi trường hợp, khi vụ án chưa giải quyết xong, chưa có quyết định xử vật chứng theo qui định của pháp luật thì vật chứng phải được bảo quản, gìn giữ nguyên vẹn giá trị chứng minh và cả giá trị kinh tế của vật chứng, phải đảm bảo cho vật chứng có giá trị chứng minh được sử dụng nhiều lần cho đến khi kết thúc vụ án. Đặc biệt phải thận trọng khi sử dụng vật chứng là công cụ, hung khí, là vũ khí, chất nổ, những vật mang vết, dễ vỡ, dễ bị xóa dấu vết, những tài liệu chỉ có một bản là chứng cứ gốc chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo….Khi sử dụng để đấu tranh với bị can, bị cáo tuyệt đối không được đưa cho bị can, bị cáo trực tiếp cầm, nắm vật chứng, đề phòng bị can, bị cáo sử dụng ngay hung khí, vũ khí đó để khống chế, hành hung người tiến hành tố tụng hoặc chúng có thể tiêu hủy, xóa dấu vết làm mất giá trị chứng minh của chứng cứ.
Tóm lại: Sử dụng chứng cứ phải tuân thủ nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ trong tố tụng hình sự. Chỉ sử dụng các chứng cứ được phát hiện, thu thập theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự, và các chứng cứ đó phải được kiểm tra đầy đủ, bảo đảm ba thuộc tính của chứng cứ và phải phù hợp với thực tế khách quan. Trong quá trình tiến hành tố tụng, không chỉ cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh mà tất cả những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Tuy nhiên muốn sử dụng chứng cứ một cách hiệu quả, đạt mục đích thì phải nhận thức đầy đủ về chứng cứ. Đối với người tiến hành tố tụng có nhận thức đúng về chứng cứ thì quá trình chứng minh, việc phát hiện, thu giữ chứng cứ mới đúng, nếu nhận thức sai về chứng cứ, sẽ phát hiện, thu giữ những sự kiện, hiện tượng không phải là chứng cứ trong vụ án, từ đó dẫn tới việc sử dụng sai và giải quyết vụ án không đúng. Đối với người tham gia tố tụng có nhận thức đúng vấn đề về chứng cứ mới thực hiện quyền của mình như cung cấp và đưa ra chứng cứ có giá trị chứng minh tới các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo điều kiện giải quyết vụ án được đúng đắn, kịp thời. Chứng cứ cũng cần phải được mọi người, mọi công dân nhận thức đầy đủ để từ đó bảo quản, giữ nguyên giá trị chứng minh của chứng cứ từ khi phát hiện đến khi cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền. Nhận thức đúng về chứng cứ những người tham gia tố tụng cũng như mọi công dân có thể sử dụng chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình./.