- Người bào chữa tham gia tố tụng hình sự với nhiệm vụ và mục đích góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, trên nguyên tắc không làm xấu đi tình trạng của người bị buộc tội. Để tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những quy định về quyền và nghĩa vụ của họ. Qua công tác tổng kết thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đã cho thấy, do chưa được quy định đầy đủ, chi tiết, cụ thể nên việc thực hiện quyền bào chữa trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung nhiều quy định mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện được quyền bào chữa trên thực tế. Khi tham gia bào chữa cho người bị buộc tội, người bào chữa có quyền sau:
- Quyền được gặp, hỏi người bị buộc tội: Do Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa chỉ có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can phụ thuộc vào kế hoạch hỏi cung, làm việc của Điều tra viên, đồng thời không quy định trong quá trình gặp đó có được hỏi, trao đổi với người được bào chữa hay không, nên nội dung quy định này gần như không có ý nghĩa khi áp dụng. Để bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền bào chữa trên thực tế, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa không chỉ có quyền gặp mà còn được hỏi người bị buộc tội, để qua đó người bào chữa nắm được những tình tiết về hành vi của người mà mình bào chữa, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của họ. Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã phân biệt rõ hai trình tự cuộc gặp:
- Cuộc gặp, hỏi giữa người bào chữa với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Nội dung điều luật khẳng định việc gặp, hỏi giữa người bào chữa với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền đương nhiên, không phụ thuộc vào sự đồng ý hay theo kế hoạch hỏi cung, đối chất của Điều tra viên hoặc phúc cung của Kiểm sát viên. Cuộc gặp này do người bào chữa chủ động thực hiện sau khi được cơ quan tiến hành tố tụng ra văn bản thông báo người bào chữa, được tiến hành trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không bị hạn chế số lần, không bị giới hạn thời gian gặp chỉ 1 giờ đồng hồ như quy định tại Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ trước đây. Người bào chữa được hỏi, trao đổi với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có mặt những người tiến hành tố tụng nếu người bào chữa không tham dự buổi hỏi cung. Nội dung này đã được quy định tại Điều 10 Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ trưởng Bộ công an quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Khi người bào chữa có văn bản đề nghị Cơ quan điều tra làm các thủ tục theo quy định của pháp luật để người bào chữa gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam; nếu từ chối cho gặp thì phải thông báo cho người bào chữa biết bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối. Điều 20 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 có quy định thực hiện trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam để những người này gặp người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp để thực hiện một số quyền, nghĩa vụ do luật định. Tiếp theo, khoản 3 Điều 22 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: “Người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa”. Thủ trưởng cơ sở giam giữ không đồng ý cho thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam thuộc các trường hợp quy định thì phải nêu rõ lý do (trong đó có lý do người bào chữa không xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam; khi đang lấy lời khai, hỏi cung hoặc người bị tạm giữ, người bị tạm giam không đồng ý thăm gặp; trường hợp này, người thăm gặp được trực tiếp gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc không đồng ý thăm gặp…).
Cuộc gặp để tiến hành hỏi cung, làm việc, đối chất và một số hoạt động khác do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiến hành, theo kế hoạch đã được chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can với sự có mặt của người bào chữa: Do người bào chữa đã chủ động có các buổi gặp, làm việc riêng với người bị buộc tội theo điểm a khoản 1 Điều 73, nên trong buổi gặp do Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành, người bào chỉ hỏi khi được họ đồng ý là phù hợp. Điều này chứng minh người bào chữa không bắt buộc phải có chữ ký trên tất cả các bản hỏi cung, biên bản làm việc của những người tiến hành tố tụng.
Cùng với quyền có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung quy định sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Thực tế cho thấy, việc quy định người bào chữa có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa, đồng thời có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng của việc lấy lời khai, hỏi cung, bởi vì trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung, nếu người bào chữa thường xuyên đặt câu hỏi sẽ làm gián đoạn quá trình làm việc. Thường thì người bào chữa khi tham gia lấy lời khai, hỏi cung hay đặt những câu hỏi có liên quan đến các tình tiết giảm nhẹ hoặc chững minh người bị buộc tội vô tội, những vi phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà Điều tra viên chưa hỏi đến, nên Điều tra viên thường hạn chế việc cho người bào chữa đặt các câu hỏi chen ngang. Để khắc phục bất cập này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung quy định nếu Điều tra viên đồng ý thì sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung, người bào chữa được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người bào chữa trong khi có mặt để lấy lời khai, hỏi cung được người bào chữa, đồng thời, tạo điều kiện cho việc lấy lời khai, hỏi cung không bị gián đoạn.
Cùng với việc có mặt để lấy lời khai, hỏi cung, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc quy định theo hướng cụ thể một số hoạt động quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc buộc tội sẽ bảo đảm sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động này.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung để có mặt khi hỏi cung. Đây là một quyền rất quan trọng để người bào chữa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, với quy định này Cơ quan điều tra có thể xem xét đề nghị đó để thông báo hoặc không thông báo về thời gian, địa điểm hỏi cung cho người bào chữa. Khắc phục vấn đề này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quy định theo hướng này xác định rõ quyền của người bào chữa chính là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các cơ quan này phải kịp thời báo trước cho người bào chữa về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để người bào chữa sắp xếp công việc, tham gia cuộc lấy lời khai, hỏi cung.
Trong giai đoạn điều tra, người bào chữa chỉ có quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng hình sự có sự tham gia của mình hoặc quyết định liên quan đến người mà mình bào chữa. Quy định này một mặt bảo đảm bí mật điều tra của vụ án. Sau khi kết thúc điều tra, kết quả điều tra phản ánh tương đối đầy đủ thông tin về vụ án, thể hiện qua hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra thì người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và nếu thấy cần thiết thì sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa ngay tại Cơ quan điều tra như được quy định tại khoản 2 Điều 11 Thông tư số 70/2011/TT-BCA.
Cụ thể, sau khi kết thúc điều tra, nếu người bào chữa đề nghị được đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa thì Cơ quan điều tra phải tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện yêu cầu này. Điều tra viên phải tập trung những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa lại thành một tập hồ sơ; trường hợp người bào chữa đọc, ghi chép những tài liệu này, Điều tra viên bố trí cho người bào chữa đọc, ghi chép tại phòng làm việc thuộc trụ sở cơ quan điều tra. Trong quá trình người bào chữa đọc, ghi chép tài liệu, Điều tra viên phải giám sát chặt chẽ, không để người bào chữa tẩy xóa, sửa chữa, làm hư hỏng, rách, thay đổi, đánh tráo hoặc lấy mất tài liệu. Trường hợp người bào chữa đề nghị sao chụp những tài liệu này, Điều tra viên trực tiếp sao chụp (bằng máy photocopy) tài liệu đưa cho người bào chữa. Việc đọc, ghi chép hoặc sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa của người bào chữa phải được lập biên bản ghi nhận, tài liệu giao cho người bào chữa phải có bản thống kê các tài liệu kèm theo.
- Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật. Quy định này được hiểu là, khi người bào chữa có căn cứ cho rằng những người này không vô tư, khách quan khi làm nhiệm vụ như: Điều tra viên có mối quan hệ thân thiết với người bị hại hoặc người giám định đang có hiềm khích, thù hằn với người bị buộc tội… thì người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi Điều tra viên hoặc người giám định. Khi người bào chữa sử dụng quyền để đề nghị này thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét thực hiện, nếu từ chối phải trả lời người bào chữa, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
Quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế của người bào chữa cũng được bổ sung tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Khi người bào chữa thấy căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế không còn hoặc việc áp dụng các biện pháp này không còn cần thiết thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hủy bỏ. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét thực hiện đề nghị của người bào chữa, nếu từ chối phải trả lời người bào chữa, trong đó nêu rõ lý do.
- Người bào chữa có quyền đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đề nghị triệu tập người làm chứng, điều tra viên và người tham gia tố tụng khác. Nếu người bào chữa thấy các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự chưa được tiến hành hoặc tiến hành chưa đầy đủ, đúng với trình tự thủ tục thì có quyền đề nghị tiến hành và tuân thủ. Ngoài ra người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để làm rõ những tình tiết của vụ án. Quy định theo hướng này được hiểu là khi người bào chữa đề nghị thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét đề nghị này của người bào chữa để thực hiện. Trường hợp không thực hiện theo đề nghị phải trả lời cho người bào chữa biết rõ lý do.
- Người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, theo đó, người bào chữa có quyền độc lập thu thập chứng cứ, cũng như yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hỗ trợ khi gặp khó khăn, trở ngại trong quá trình thu thập chứng cứ. Chứng cứ của người bào chữa thu thập được giao nộp theo trình tự quy định và phải được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về trình tự, thủ tục, giá trị sử dụng trước khi sử dụng làm căn cứ để xác định những tình tiết có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Người bào chữa thường chỉ thu thập, đưa ra chứng cứ để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Cùng đó, người bào chữa còn có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Việc bổ sung các quy định này trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động cải cách tư pháp, thay đổi cơ bản quan niệm về vai trò của người bào chữa trong hoạt động tố tụng, phát huy tinh thần tranh tụng trong suốt các giai đoạn của tố tụng hình sự. Với các quy định này, cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội thì yêu cầu thận trọng, chính xác, khách quan cũng được nghiêm túc đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, sau khi chủ tọa phiên tòa hỏi sẽ quyết định các thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa… thực hiện việc hỏi. Người bào chữa được đặt các câu hỏi đối với người bị xét hỏi về các tình tiết mà theo họ cần phải làm rõ. Trong thủ tục tranh luận tại phiên tòa, sau khi Kiểm sát viên trình bày bản luận tội, bị cáo, người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo và tham gia tranh luận với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác. Quá trình đối đáp tại phiên tòa được chủ tọa điều hành trên cơ sở tất cả các vấn đề liên quan đến tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội phải được đối đáp đến tận cùng, không bị hạn chế thời gian, nhưng chủ tọa có quyền cắt lời đối đáp nếu nội dung lặp lại hoặc nằm ngoài các vấn đề tranh tụng tại phiên tòa.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Trong quá trình tham gia tố tụng, khi phát hiện quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có dấu hiệu vi phạm pháp luật, không bảo đảm tính khách quan, người bào chữa có quyền khiếu nại và các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải giải quyết theo các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Chương XXXIII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo mà họ bào chữa là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Nếu bị cáo là người từ đủ 18 tuổi, không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì họ tự thực hiện quyền kháng cáo của mình, người bào chữa không được quyền kháng cao thay.
- Cùng với việc quy định mở rộng quyền, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng bổ sung nhiều nghĩa vụ nhằm nâng cao trách nhiệm của người bào chữa.
- Nếu như cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội thì người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp theo quy định của pháp luật để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ, mục đích của việc bào chữa; tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự không quy định đây là quyền mà là quy định là nghĩa vụ của người bào chữa nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Khi đã tham gia bào chữa cho người bị buộc tội với tư cách là người bào chữa, họ phải nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ của mình, áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để bảo vệ cho người bị buộc tội, đặc biệt khi bào chữa trong các trường hợp chỉ định hoặc được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc các tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa.
Người bào chữa chỉ được sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật, không được sử dụng các biện pháp trái pháp luật như tạo chứng cứ giả, mua chuộc, dụ dỗ người làm chứng, người bị hại, người giám định, định giá tài sản… làm sai lệch bản chất sự thật khách quan của vụ án.
- Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ như tư vấn, giải thích cho người bị buộc tội về các quy định của pháp luật có liên quan để họ thực hiện tốt nhất các quyền cũng như nghĩa vụ của mình trong tố tụng hình sự, hướng tới bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ: Khi bị can, bị cáo bị người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bức cung, dùng nhục hình thì người bào chữa tư vấn cho họ tố cáo hoặc có thể giúp bị can, bị cáo tố cáo hành vi bức cung, dùng nhục hình.
- Khi đã nhận bào chữa cho người bị buộc tội thì không được từ chối bào chữa cho họ nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan.
- Hoạt động bào chữa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội theo hướng chứng minh vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời dựa trên cơ sở pháp luật, vì vậy người bào chữa phải có nghĩa vụ tôn trọng sự thật, không được dùng các thủ đoạn để đạt được mục đích bằng mọi giá; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
- Người bào chữa phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 tội đó có khung hình phạt từ 20 năm tù, tù chung thân, tử hình hoặc người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi thì người bào chữa phải có mặt theo triệu tập, yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Đối với các trường hợp bào chữa khác, luật không quy định người bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà chỉ quy định người bào chữa phải có mặt theo triệu tập của Tòa án khi bị cáo có yêu cầu nhờ người bào chữa hoặc thuộc trường hợp Tòa án chỉ định. Khi đó, Tòa án có quyền triệu tập người bào chữa đến phiên tòa và người bào chữa có nghĩa vụ có mặt tại phiên tòa. Tòa án không chỉ triệu tập người bào chữa trong phiên tòa sơ thẩm, nếu vụ án được xét xử ở phúc thẩm mà có liên quan đến bị cáo mà người bào chữa đã bào chữa chỉ định tại giai đoạn sơ thẩm hoặc bị cáo tiếp tục có yêu cầu bào chữa tại phiên tòa phúc thẩm thì Tòa án xét xử phúc thẩm sẽ triệu tập người bào chữa tham gia phiên tòa. Đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, nếu thấy cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người bào chữa (Điều 383, khoản 3 Điều 405 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Ở mọi cấp xét xử, khi được Tòa án triệu tập thì người bào chữa phải có mặt theo giấy triệu tập cảu Tòa án, đây vừa là quyền nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ của người bào chữa.
- Trong quá trình bào chữa, người bào chữa được phép tiếp cận thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà họ bào chữa. Để bảo đảm bí mật điều tra, cũng như bảo đảm quyền bí mật cá nhân, thông tin bí mật của khách hàng, luật quy định người bào chữa không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Ngoài các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa nêu trên, Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, cũng như bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư và các quy định về xử lý kỷ luật luật sư do Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành đã tạo cơ sở pháp lý và đạo đức điều chỉnh hành vi và ứng xử của Luật sư trong mối quan hệ với khách hàng, với đồng nghiệp, với cơ quan tiến hành tố tụng, với các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan báo chí, truyền thông.