- Biện pháp bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự để thay thế biện pháp tạm giam. Theo đó, không phải bị can, bị cáo nào cũng có thể bị áp dụng biện pháp này mà chỉ là những bị can, bị cáo thuộc trường hợp đang bị tạm giam mà căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (nhìn chung là các tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc các tội phạm khác được thực hiện do lỗi vô ý) và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết phải tạm giam hoặc đối với bị can, bị cáo bị ốm nặng cần chữa trị tại bệnh viện thì họ có thể được bảo lĩnh.
2. Điều luật quy định phạm vi người nhận bảo lĩnh và các điều kiện cần thiết của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi đứng ra nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo. Theo đó, trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh phải từ đủ 18 tuổi trở lên, người này phải là người thân thích của bị can, bị cáo (bố mẹ, anh chị em ruột…) và phải có ít nhất hai người đứng ra nhận bảo lĩnh. Người nhận bảo lĩnh còn phải là người có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh. Cá nhân bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trường hợp cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh thì chỉ có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của cơ quan, tổ chức mình và việc nhận bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân, tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Quy định này mang tính ràng buộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đứng ra bảo lĩnh trong việc quản lý người bị bảo lĩnh, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý trong trường hợp người bảo lĩnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam đoan.
3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
– Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan (trong trường hợp bị can, bị cáo khi được tại ngoại bị triệu tập mà không đến được vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không còn phải đến ngày cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã triệu tập, trình bày rõ lý do không có mặt theo giấy triệu tập);
– Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội (vi phạm cam đoan không bỏ trốn và việc bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu);
– Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam.
4. Về thẩm quyền áp dụng: những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Điều luật được sửa đổi, bổ sung so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đó là: Quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
5. Về thời hạn bảo lĩnh: thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.