Đặt tiền bảo đảm để thay thế biện pháp ngăn chặn

1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có quy định đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn. Đây là một trong những biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa quan trọng, thay thế cho các biện pháp ngăn chặn khác có liên quan việc hạn chế quyền tự do về thân thể của người bị buộc tội. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy quy định về đặt tài sản có giá trị để bảo đảm không có tính khả thi do thủ tục đặt tài sản rất phức tạp. Mặt khác, mức đặt tiền bảo lãnh chưa được hướng dẫn, quy định cụ thể, có Cơ quan điều tra yêu cầu mức đặt tiền bảo lãnh bằng với mức độ thiệt hại của vụ án hoặc giá trị hàng phạm pháp… nên gần như không phát huy được mặt tiến bộ của Điều luật.

Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định về biện pháp đặt tiền để bảo đảm, không quy định về đặt tài sản có giá trị để bảo đảm. Điều luật quy định: “Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế tạm giam”. Theo đó, không phải bị can, bị cáo nào cũng có thể bị áp dụng biện pháp này mà chỉ những bị can, bị cáo nào cũng có thể bị áp dụng biện pháp này mà chỉ những bị can, bị cáo đang bị tạm giam mà căn cứ vào tính chất vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết phải tạm giam thì họ có thể được đặt tiền để bảo đảm.

Cùng với việc bị can, bị cáo có thể tự mình đặt tiền để bảo đảm, Điều luật còn cho phép người thân thích của bị can, bị cáo được đặt tiền để bảo đảm cho bị can, bị cáo. Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Khi làm giấy cam đoan, người này được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến bị can, bị cáo.

2. Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy ca đoan thực hiện các nghĩa vụ:

– Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan (trường hợp bị can, bị cáo khi được tại ngoại bị triệu tập mà không đến được vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì khi lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không còn phải đến ngay cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã triệu tập, trình bày lý do không có mặt theo giấy triệu tập);

– Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội (vi phạm cam đoan không bỏ trốn là việc bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu);

– Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Điều luật không chỉ quy định trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam mà còn quy định trách nhiệm vật chất đối với bị canm bị cáo khi họ vi phạm nghĩa vụ chấp hành biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

3. Điều luật cũng quy định rõ phạm vi những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, đó là những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Riêng đối với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp thì quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành..

4.Cần lưu ý, thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.

Để bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện biện pháp đặt tiền để bảo đảm, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nàh nước số tiền đã đặt để bảo đảm. Việc ban hành sớm văn bản của liên ngành hướng dẫn quy định này sẽ phát huy tác dụng của biện pháp thay thế biện pháp tạm giam, nâng cao khả năng bảo đảm vê tài chính, giảm thiểu việc tạm giam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.

XEM THÊM