Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự

1.Biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự, khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này, người bị tạm giam bị cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền con người, quyền công dân như quyền tự do thân thể, quyền tự do cư trú, đi lại…

Biện pháp tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của những người lương thiện không bị xâm hại. Biện pháp tạm giam cũng là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, khi bị áp dụng biện pháp này, bị can, bị cáo bị cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, đụng chạm rất nhiều đến quyền con người, quyền công dân của họ. Vì vậy, khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, người có thẩm quyền cần đánh giá, cân nhắc thận trọng, kỹ lưỡng trên tinh thần nhân đạo để lựa chọn biện pháp ngăn chặn phù hợp. Khi áp dụng biện pháp tạm giam, một mặt cần hạn chế thấp nhất việc ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, nên cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định đây là biện pháp ngăn chặn, không được áp dụng như một biện pháp điều tra hay biện pháp trừng phạt. Đặc biệt, đối với biện pháp tạm giam là biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, đòi hỏi khi áp dụng cần hết sức thận trọng, đúng mục đích và có căn cứ.

2.Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam quy định tại khoản 1 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sử dụng kết quả phân loại tội phạm làm căn cứ áp dụng, không xuất phát từ mục đích của việc áp dụng: “Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng”. Căn cứ này dựa trên đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà không cần phải đánh giá căn cứ vào việc trốn tránh, gây cản trở, khó khăn cho hoạt động tố tụng hoặc tiếp tụng phạm tội. Có thể đánh giá theo hướng khi tính chất, mức độ phạm tội nguy hiểm sẽ tương ứng với mức độ hình phạt mà người phạm tội phải chịu thì họ dễ có tâm lý bỏ trốn, gây cản trở hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều bị can, bị cáo ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, hợp tác với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để lập công chuộc tội, mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, sửa chữa sai lầm để trở thành người có ích cho gia đình, xã hội. Không phải mọi trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng người phạm tội đều có sự chuẩn bị từ trước, mà nhiều trường hợp phạm tội không có sự chuẩn bị trước, chỉ do nhất thời không làm chủ được mình, bột phát thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, có rất nhiều vụ án, ban đầu khởi tố bị can, truy tố, xét xử với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng sau đó xác định vô thội hoặc phạm vào tội nhẹ hơn, thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng. Vì vậy, nếu chỉ áp dụng đơn thuần căn cứ tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo hướng có thể tạm giam ngay mà không cần có thêm căn cứ nào khác có thể dẫn đến việc xâm phạm quyền con người, quyền công dân, vi phạm nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa.

Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, người có thẩm quyền cần cân nhắc đến các tình tiết như: Phạm tội có chuẩn bị trước hay không; thái độ sau khi phạm tội (ăn năn, khai báo thành khẩn hay ngoan cố, lỳ lợm…); nhân thân (có tiền án, tiền sự chưa, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân…); tình trạng cư trú (có nơi cư trú rõ ràng không, thường trú hay tạm trú, đối tượng nội tỉnh hay ngoại tỉnh); mối quan hệ ràng buộc với gia đình (coi trọng gia đình hay bỏ mặc)… để từ đó đánh giá mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý trước pháp luật.

3.Đối với các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được quy định cụ thể, rõ ràng, người có thẩm quyền cần thực hiện nghiêm túc như:

– Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định hình phạt tù từ trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Liên quan đến trường hợp xác định người bị buộc tội “không có nơi cư trú rõ ràng” hoặc “bỏ trốn”, thực tiễn cho thấy một số cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa tiến hành thẩm tra kỹ lưỡng về nơi cư trú của bị can, bị cáo. Theo quy định của luật cư trú năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2013, công dân Việt Nam có quyền tự do cư trú, việc đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú được mở rộng, nên thực tế nếu chỉ căn cứ vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú mà người bị buộc tội vắng mặt để cho rằng họ bỏ trốn là chưa bảo đảm căn cứ. Trong trường hợp này, cơ quan và người tiến hành tố tụng cần có biện pháp xác minh cụ thể về sự thay đổi, dịch chuyển nơi cư trú, tạm trú để có căn cứ xác định người đó có phải không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có dấu hiệu bỏ trốn hay không.

  • Bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
  • Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:

+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

+ Tiếp tục phạm tội;

+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

+ Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tạm giam so với Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã được bổ sung các điều kiện cụ thể khi áp dụng biện pháp tạm giam, nhằm bảo đảm việc áp dụng biện pháp này được chặt chẽ, tránh trường hợp không cần thiết phải tạm giam nhưng vẫn áp dụng biện pháp tạm giam và ngược lại, có trường hợp cần phải tạm giam để ngăn chặn việc tiếp tục phạm tội hoặc phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử thì theo quy định lại không áp dụng được. Theo đó, Điều luật đã mở rộng điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam đối với cả trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định phạt tù đến 02 năm nhưng họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

4.Về thẩm quyền ra lệnh, quyết định tạm giam: Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có thẩm quyền ra lệnh, quyết định tạm giam, cụ thể là:
+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;

+ Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.

5.Về thời hạn phê chuẩn:

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục giữ quy định tại khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thời hạn xét phê chuẩn tạm giam của Viện kiểm sát là 3 ngày để bảo đảm tính thận trọng trong việc tạm giam, nhưng tinh thần chung là Viện kiểm sát phải tiến hành việc xét phê chuẩn khẩn trương.

6.Những việc làm khi tạm giam:

Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nời người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nời người bị tạm giam làm việc, học tập biết.

XEM THÊM