Thứ Ba, 14/01/2025 | 6:18:45

Người làm chứng trong vụ án hình sự

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 xác định người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án; tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin tội phạm cũng được cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra triệu tập đến làm chứng. Theo đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng có thể trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hoặc có thể gián tiếp nhìn thấy như nhìn qua bang hình hoặc nghe người khác kể lại những tình tiết liên quan đến vụ án.

Luật sư Văn phòng luật sư số 5 Hà Nội

Người làm chứng có vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự, họ tham gia tố tụng không phụ thuộc vào ý chí của họ hay ý chí của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do họ biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm hoặc tình tiết của vụ án. Chính vì vai trò quan trọng của người làm chứng mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có những quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm tính khách quan của người làm chứng. Người bào chữa của người bị buộc tội không được làm chứng, ngoài ra, người làm chứng phải là người có khả năng nhận thức và khả năng khai báo cho nên người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn thì cũng không được làm chứng. Trong trường hợp có sự nghi ngờ người biết được các tình tiết có liên quan đến vụ án là người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, ảnh hưởng đến khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết cua vụ án thì bắt buộc phải tiến hành giám định.

Về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định trên cơ sở kế thừa Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, chỉnh lý các nội dung cho phù hợp với khái niệm về người làm chứng, bổ sung quyền yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của người thân thích của người làm chứng khi bị đe dọa để họ yên tâm khi làm chứng, bảo vệ người thân thích của họ khỏi sự trả thù.

Về nghĩa vụ, người làm chứng phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó. Người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đồng thời, để tạo điều kiện thuận lợi cho người làm chứng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn được bổ sung quy định: “Cơ quan, tổ chức mời người làm chứng làm việc hoặc học tập có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng”.

Văn phòng luật sư số 5 Hà Nội

XEM THÊM